Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Khi có thai, cơ thể bạn sẽ bắt đầu có những biến đổi nhỏ, sau đó là rõ ràng và chắc chắn hơn. Tuy nhiên, để giúp bạn sớm phát hiện ra tin vui này nhằm có phương pháp chăm sóc, dinh dưỡng phù hợp cho bạn và bé, hãy tìm hiểu qua các bước thử thai sau nhé.


Dấu hiệu có thai đầu tiên giúp bạn lưu ý đó là trễ kinh và các biểu hiện tâm lý bất ổn như dễ bực bội, cáu gắt hay thay đổi về nhu cầu ăn uống… Sau đó, bạn sẽ cần tham khảo một cách kiểm tra thai như sau:


1. Que thử thai (Quick stick)


Đây là cách đơn giản, thuận tiện và rất thông dụng. Bạn dễ dàng mua được que thử thai tại các nhà thuốc, bệnh viện. Độ chính xác của nó lên tới 90%, chỉ cần bạn biết chọn thời điểm để kiểm tra và quy trình thực hiện đúng theo hướng dẫn. Tốt nhất là bạn nên thử sau khi phát hiện mình bị trễ kinh và vào buổi sáng khi mới ngủ dậy. Tránh uống quá nhiều nước trước khi thử thai vì có thể làm loãng hormone hCG trong nước tiểu.


Bạn không tin tưởng thì có thể thử thai 2 – 3 lần theo đúng các bước yêu cầu trên, nếu có cùng một kết quả thì bạn hoàn toàn có thể chắc chắn rằng mình đã có thai. Hoặc bạn cũng có thể tiếp tục kiểm tra bằng nhiều cách khác để khẳng định “tin vui” của mình.


2. Xét nghiệm nước tiểu


Gần giống với que thử thai thông qua nước tiểu, xét nghiệm nước tiểu được thực hiện tại các bệnh viện, phòng khám chuyên về khoa sản. Nếu tiến hành sau khi thụ thai khoảng hơn 2 tuần thì độ chính xác cao hơn 90%, còn sau 6 tuần thì kết quả hoàn toàn đáng tin cậy.


3. Xét nghiệm máu


Một cách chính xác và biết được kết quả sớm hơn đó là xét nghiệm máu tại bệnh viện. Vẫn thông qua đo hàm lượng hCG có trong máu, bác sĩ còn kết hợp với nhiều bước khám khác như siêu âm, khám trong để loại bỏ mọi lo lắng, nghi vấn và chắc chắn được rằng bạn đang có/ hoặc không có thai. Vì vậy, với yêu cầu kiểm tra thông qua nhiều bước và được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên môn thì bạn nên yên tâm về kết quả mà mình nhận được sau 1 – 2 ngày nhé! Những dấu hiệu nhận biết có thai biểu hiện ra ngoài cơ thể cũng rất dễ thấy, tham khảo thêm những dấu hiệu có thai tại đây: https://www.huggies.com.vn/thu-thai/dau-hieu-nhan-biet-co-thai/

Ăn dặm là một dấu mốc phát triển quan trọng của mọi trẻ sơ sinh. Bé cần tập ăn dặm để cơ thể được cung cấp đủ dinh dưỡng và phát triển, nhưng bé lại chưa quen chút nào với loại thức ăn kỳ lạ này. Mẹ nên làm sao đây?


Chọn thời điểm thích hợp cho bé ăn dặm: Trẻ sơ sinh thường khi đến khoảng 4-6 tháng tuổi là sẵn sàng cho việc ăn dặm, nhưng tốt nhất bạn hãy tham khảo bác sỹ trước khi thực hiện việc này. Bên cạnh đó, cũng hãy quan sát để nhận ra những tín hiệu từ con, chẳng hạn như con đã kiểm soát đầu tốt, ăn nhiều hơn, tỏ ra hứng thú với những gì mà bạn ăn… những dấu hiệu này cho thấy bé đã sẵn sàng thử thực đơn ăn dặm.


Chuẩn bị đầy đủ “công cụ lao động”: một cái muỗng mềm, đầu tròn, một cái yếm, một cái bát nhựa hoặc loại không dễ vỡ, và nếu có thì một chiếc ghế ngồi ăn nữa thì sẽ rất tốt.


Hãy bắt đầu đơn giản thôi, bạn có thể trộn ngũ cốc dành cho trẻ sơ sinh với sữa mẹ hay sữa công thức; hoặc bạn nghiền lê, khoai lang, đậu… cho con ăn làm quen. Và hãy chuẩn bị tinh thần cho một bãi chiến trường. Trẻ nhỏ chưa thể nào biết được những quy tắc ăn uống đàng hoàng lịch sự như người lớn, vậy nên bạn hãy chuẩn bị đón nhận những việc như thức ăn rơi đầy bàn, rơi cả xuống đất, dính lên người cả mẹ lẫn con…


Bạn cũng đừng ngạc nhiên hay nản lòng nếu như ban đầu con không tỏ ra hào hứng với loại thức ăn mới này chút nào, hãy tiếp tục cho con ăn và bé sẽ dần quen với việc này. Chụp lại những khoảnh khắc ngộ nghĩnh này của con, khi bé đang “bước” tới một dấu mốc rất quan trọng trong sự phát triển của mình nữa, mẹ nhé.


 

Kích thích tất cả các giác quan


Các nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em lớn lên trong một môi trường đa dạng – nơi bé được trải nghiệm với nhiều sự tương tác, tiếp xúc của các giác quan – thì bộ não sẽ hoạt động nhiều hơn so với những bé lớn lên mà mà giác quan thụ động. Kích thích các giác quan của con là cách để bạn giúp bé hình thành được thói quen và niềm vui, sự hào hứng tìm hiểu về những người, những vật xung quanh và cả những nơi bé đến. Tất nhiên, bạn không nên bắt con bạn khám phá 24 giờ / ngày hoặc cố gắng nhồi nhét tất cả vào các giác quan của con, vì điều đó sẽ gây phản tác dụng. Và các bác sĩ khuyên bạn không nên cho trẻ em dưới 2 tuổi tiếp xúc với TV.


 


Âm nhạc cũng đóng 1 phần quan trọng giúp bé phát triển tư duy. Bạn hãy tìm hiểu về tác dụng của âm nhạc trong sự trợ giúp phát triển kỹ năng của trẻ ở các lứa tuổi khác nhau, trong đó có cả lời các bài hát ru yêu thích của bạn.Với đồ chơi, bạn hãy cho con chơi nhiều loại đồ chơi với hình dạng, kết cấu, màu sắc, âm thanh, và trọng lượng khác nhau để bé hình thành tư duy phân biệt. Cho bé chơi các trò tương tác như ú òa, chi chi chành chành, đi bộ cùng nhau, hay cùng đi mua sắm và để cho bé gặp gỡ những người mới. Ngay cả những hoạt động hàng ngày đơn giản cũng sẽ kích thích sự phát triển não bộ của bé.


Bạn cần khuyến khích con đi lại, vận động để phát triển cơ bắp, giữ thăng bằng tốt hơn, học cách phối hợp sự sờ nắn để thu thập dữ liệu cho mình. Và để tạo cho con một môi trường khám phá tốt nhất, bạn hãy đặt để những vật dụng an toàn trong phòng của con để không cần phải liên tục nói “không” hay “đừng chạm vào”. Hãy cất/giữ những thứ nguy hiểm hoặc có giá trị ra khỏi tầm với bé; ví dụ, trong nhà bếp, hãy đặt khóa an toàn ở tất cả các tủ. Riêng với bát nhựa, ly đo lường, muỗng gỗ, và nồi chảo inox thì em bé của bạn có thể chơi một cách an toàn.


Khuyến khích các thách thức mới


Bạn đừng làm con chán nản với món đồ chơi hay các hoạt động nằm ngoài khả năng của bé, nhưng món đồ chơi / hoạt động cần “hơi khó” một chút mới đem lại tác dụng tốt hơn cho bé, vì chúng sẽ kích thích bé tự tìm ra cách để hoàn thành “nhiệm vụ” – cũng là cách để khuyến khích phát triển trí tuệ. Nếu bé đang cố gắng để mở một chiếc hộp, bạn hãy ngăn mình nhào tới làm hộ ngay cho bé, hãy để bé tự cố gắng vài lần trước khi bạn làm thử cho bé thấy, rồi sau đó đưa trở lại cho bé 1 chiếc hộp kín khác để bé có thể thử lại một mình.


Chăm sóc bản thân


Bé chỉ có thể thật sự hạnh phúc khi bố mẹ bé hạnh phúc. Vậy nên các bạn đừng quên chăm sóc chính mình, cùng với con. Hãy tranh thủ tập thể dục, ngay cả khi đi tản bộ với em bé trong xe đẩy, ăn những thức ăn có lợi cho sức khỏe, và ôm bé trong tay với 1 giấc ngủ ngắn để chắc chắn bạn có đủ thời gian để nghỉ ngơi.


Nếu bạn cảm thấy kiệt sức, hãy tìm cách chia sẻ nhiệm vụ với mọi người trong gia đình và trao trách nhiệm nuôi dạy con với chồng/vợ của mình. Nếu bạn là một người mẹ độc thân, hãy tìm quanh những người có thể cho bạn sự giúp đỡ và hỗ trợ. Đừng quên dành cho mình những khoảng thời gian để thư giãn, bạn nhé, vì là một người mẹ bận rộn con cái, bạn rất dễ rơi vào trạng thái mệt mỏi, nên bạn cần thời gian để nạp lại năng lượng cho riêng mình.


Nếu bạn bị choáng ngợp với việc chăm sóc bé hoặc bạn đang cảm thấy stress, hãy tìm một người mà bạn tin tưởng để trút tâm sự chứ đừng cố gắng giữ trong lòng, bởi khi cảm thấy buồn hay khó chịu thì sẽ rất khó khăn để bạn nhạy cảm và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của con mình.


 


Nếu bạn thấy mình hay buồn bã hoặc lo âu rất nhiều, bạn không thể chăm sóc cho mình hay cho con, và những điều bình thường làm cho bạn hạnh phúc thì giờ không thế nữa… bạn có thể đã bị trầm cảm. Hầu hết phụ nữ có kinh nghiệm đều cho biết, sau khi sinh con, họ gặp phải một “phản ứng” tình cảm, thường kéo dài trong một tuần hoặc hơn một chút. Trầm cảm sau sinh là tình trạng nghiêm trọng hơn nhiều, nhưng nó cũng có thể điều trị được. Vậy nên đừng quá lo lắng, chỉ cần bạn chịu tìm kiếm lời khuyên, và đặc biệt là đến gặp bác sỹ thật sớm để được giúp đỡ kịp thời và nhanh chóng.


Người trông trẻ tốt


Nếu bạn phải làm việc và không thể cả ngày ở bên chăm con thì việc tìm một người trông trẻ chất lượng là điều cần thiết cho sự phát triển khỏe mạnh của bé. Và cho dù người sẽ thay bạn trực tiếp chăm sóc em bé trong lúc bạn đi vắng là ông bà, người thân, hoặc một cô giữ trẻ thuê về… thì đều cần có kinh nghiệm chăm sóc, có uy tín, sự nhẫn nại với tình yêu đích thực cho trẻ em cũng như sức khỏe tốt để giúp bé phát triển kỹ năng.


 

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014

Chỉ mỗi chuyện cho con ăn dặm, mẹ đã có đến bao nhiêu là thắc mắc rồi. Những giải đáp ngắn gọn dưới đây cho những câu hỏi thường gặp nhất về các giai đoạn ăn dặm của trẻ dành riêng cho các bà mẹ nuôi con đầu lòng.


Khi nào con có thể ngưng bú mẹ?


Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trẻ nhỏ nên được bú mẹ hoàn toàn trong ít nhất 6 tháng đầu đời và tiếp tục cho bú mẹ đến khi bé được ít nhất 1 tuổi cùng với việc cho bé ăn thêm thực đơn ăn dặm thô.


Khi nào con có thể uống nước?


Trong 6 tháng đầu đời, bé chỉ cần sữa mẹ hoặc sữa công thức, tiếp đó, bé được cho ăn thô hơn. Nước có thể được khuyến khích bổ sung cùng với sữa mẹ hoặc sữa công thức khi bé được từ 9 đến 10 tháng tuổi. Mỗi ngày có thể bổ sung khoảng 120ml nước hoặc hơn cho bé.


Khi nào con có thể uống sữa bò hoặc ăn các chế phẩm sữa?


Sữa bò không chứa đủ lượng sắt thiết yếu cho bé, vì vậy mà nó không được xem là một trong các lựa chọn sữa cho trẻ dưới 1 tuổi, khi mà các loại thực phẩm chứa sắt khác được ưu tiên hơn trong chế độ ăn của bé. Các chế phẩm từ sữa như phô-mai, sữa chua lại là nguồn năng lượng, canxi và đạm tuyệt vời để có thể bổ sung trong khẩu phần của bé từ 6 tháng tuổi.


Khi nào con có thể uống nước trái cây?


Nước trái cây không được khuyên dùng cho trẻ sơ sinh. Bạn nên bỏ qua món này cho đến khi bé được 4 hoặc 5 tuổi, hoặc có thể cho bé uống thêm nước trái cây nhưng không thường xuyên. Hãy lưu ý rằng quá nhiều nước trái cây sẽ làm giảm sự ngon miệng của bé với các món ăn chính và làm tăng nguy cơ sâu răng.


Khi nào con có thể ăn ngũ cốc (bột ăn dặm/ cháo ngũ cốc)?


Bạn có thể cho bé làm quen với ngũ cốc từ sau 6 tháng tuổi, kết hợp với sữa mẹ hoặc sữa công thức. Việc cho bé ăn thêm nhiều loại bột ngũ cốc cùng với sữa mẹ sẽ giúp bé được đảm bảo đủ lượng sắt cần thiết trong khẩu phần ăn của mình.


Khi nào có thể cho bé ăn dặm?


Bé có thể ăn dặm từ 6 tháng tuổi. Thịt hoặc ngũ cốc cho em bé được xem là lựa chọn tốt để làm món ăn đầu tiên của bé do có lượng chất sắt cao khi so sánh với trái cây và rau xanh. Các bằng chứng gần đây cho thấy không cần thiết phải trì hoãn việc cho bé ăn dặm để phòng ngừa dị ứng thực phẩm, cách này chỉ làm chậm việc phát hiện dị ứng mà thôi. Tuy nhiên, nếu gia đình có tiền sử dị ứng, bạn nên cẩn trọng và hỏi ý kiến bác sĩ khi cho bé ăn các loại thực phẩm thường gây dị ứng.


Khi nào con có thể ăn cá hoặc sushi?


Cá sống không được khuyến khích đối với em bé và trẻ em nói chung. Chúng chứa vi khuẩn mà hệ tiêu hóa của trẻ em có thể chưa đối phó được. Cá chín, ngược lại là nguồn đạm và axit béo rất tốt cho trẻ và cần được bổ sung vào thực đơn cho trẻ 6 tháng tuổi. Thịt cá lọc bỏ xương thường là lựa chọn tuyệt vời cho trẻ nhỏ vì nó mềm và có cấu trúc tơi xốp rất dễ nhai.


Khi nào con có thể ăn mật ong?


Không nên cho bé ăn mật ong khi bé chưa tròn năm vì mật ong chứa bào tử của một loại vi khuẩn tên là Clostridium botulinum. Những bào tử này có thể gây hại cho em bé vốn có hệ miễn dịch non nớt chưa thể chống chọi với các mầm bệnh.


Khi nào con có thể ăn trái cây?


Có thể cho bé ăn các loại trái cây vào khoảng 6 tháng tuổi. Một lời khuyên cho các bà mẹ có con trong giai đoạn ăn dặm là bạn chỉ nên cho bé ăn thử một món mới sau mỗi 2-3 ngày để có thể dễ dàng phát hiện bé bị dị ứng với món nào.


Khi nào con có thể ăn đậu phộng và các loại hạt?


Bơ thực vật – từ các loại hạt như bơ đậu phộng, hoặc các loại thực phẩm chứa hạt có thể được cho bé ăn trước 12 tháng tuổi, nhưng nên lát mỏng bơ trên bánh mì hoặc bánh quy để tránh làm bé mắc nghẹn. Tuy nhiên, không nên cho trẻ dưới 5 tuổi ăn hạt nguyên hạt vì bé có thể bị hóc dị vật; hình dáng và kích thước của hạt hoàn toàn vừa vặn để bít kín đường thở của bé. Trong một số trường hợp, các bác sĩ cũng khuyên nên hoãn việc cho bé ăn các sản phẩm từ các loại hạt nếu có tiền sử dị ứng trong gia đình.

Những năm đầu đời, con xem chuyện chơi cũng đại sự như “công việc toàn thời gian” của bố mẹ và rất chuyên tâm cho công việc này. Nếu bố mẹ đi làm để lo cho tương lai gia đình thì con chơi cũng để chuẩn bị cho mình một tương lai xán lạn. Vì sao lại thế nhỉ?


Suốt thời thơ ấu, việc chơi đùa có mối liên hệ không gì lay chuyển được với việc học tập, hòa nhập xã hội, sự phát triển và thậm chí cả trí năng của trẻ. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc được tiếp cận với những “nguyên liệu” chơi (như đồ chơi và trò chơi) là một trong những cách phù hợp nhất để khơi dậy trí thông minh của trẻ. Đồ chơi của các bé không cần phải đắt tiền hay là món đồ hiện đại nhất, và không nên là đồ chơi chạy điện, vì như thế có nghĩa món đồ chơi ấy sẽ tự mình làm mọi thứ để phục vụ bé tận răng. Những món đồ chơi đơn giản, rẻ tiền, tự do (những thứ mà bé có thể chơi theo bất cứ cách nào mà bé muốn) sẽ tốt hơn nhiều.


 


Chơi giúp con thông minh hơn.


Giờ chơi và sự tương tác với đồ chơi là quan trọng nhất, qua đó con sẽ phát triển kỹ năng cơ bản. Hãy để ý một đứa bé chơi với một bộ đồ chơi xe lửa. Bé không chỉ chủ động biết được thêm về xe lửa mà còn biết được các bánh xe vận hành ra sao, làm sao để sử dụng đường ray và thậm chí cả trọng lực hoạt động thế nào. Cũng chính đứa trẻ đó khi phân loại những chiếc xe lửa, bé sẽ học được về màu sắc, con số, kích cỡ và hình dáng.


Bạn có thể làm gì? Hãy tắt TV , các đĩa DVD giáo dục, và lấy ra búp bê, ô tô, những quả bóng và bong bóng xà phòng, cùng con chơi những trò chơi trong nhà để gần gũi hơn với bé.


Chơi giúp phát triển kỹ năng xã hội.


Chờ đến lượt, hợp tác cùng nhau, tuân theo luật lệ, thông cảm và khả năng tự điều chỉnh – những thứ trên chỉ là vài trong số những kỹ năng xã hội mà việc chơi đùa nhấn mạnh đến. Nó giúp trẻ con hiểu được các quy tắc tương tác xã hội mà sẽ rất có giá trị trong mọi mối quan hệ sau này của bé. Những đứa trẻ có thể chơi chung tốt với nhau sẽ có thể hợp tác tốt với mọi người khác sau này, và nghĩa là chúng có kỹ năng xã hội tốt.


 


Bạn có thể làm gì? Dù là một buổi chơi chung hay một chuyến đi đến sân chơi thì cũng hãy cho con bạn cơ hội tiếp xúc với những đứa trẻ khác cùng lứa tuổi. Những lúc như thế sẽ tạo nền móng cho những mối quan hệ xã hội trong tương lai, đồng thời gây nên những “áp lực” khiến chúng hành xử theo những cách chúng ta trông đợi.


Chơi giúp phát triển kỹ năng kiềm chế bốc đồng.


Người ta thường nói rằng chơi là công việc của trẻ con, và quả thật là thế, nó mang tính chất của công việc nhiều hơn ta tưởng. Đặc biệt, chơi tự do không phải là tự do. Đó là vấn đề của sự tự chủ và tuân theo những quy tắc xã hội. Những đứa trẻ từng tham gia vào trò chơi đóng kịch có thể rèn luyện được tính trách nhiệm xã hội cao hơn. Những đứa trẻ bốc đồng có xu hướng cho thấy sự tiến bộ tốt nhất khi được cho cơ hội chơi nhiều hơn.


Bạn có thể làm gì? Đừng quá vội vã tạo nên một lịch chơi khi cùng con ra ngoài hay tổ chức một buổi chơi chung với những nhà khác. Hãy cho con có cơ hội và đồ chơi để chơi (như quả bóng, những chiếc hộp và những khối nhiều hình thù) để tạo nên một buổi chơi “tự do” theo đúng nghĩa của nó. Hoặc bạn cũng có thể cùng con sắp xếp nhà cửa và tranh thủ thời gian đó để cho trẻ tập làm quen với vật dụng trong nhà.


Chơi làm giảm căng thẳng.


“Căng thẳng gì chứ?” bạn có thể đang tự hỏi như vậy. Chắc rồi, con bạn ngủ, ăn, và chơi bời gần hết thời gian của ngày, thế thì có gì mà căng thẳng chứ, nhưng tuổi thơ còn bao gồm cả việc học các quy tắc xã hội, kiềm chế những cơn bốc đồng, làm theo những điều mà người lớn nói và đối đầu với những “cuộc chia ly” – và đấy là chúng thậm chí chỉ mới vừa chập chững tập đi!


Bạn có thể làm gì? Nếu bạn đang đối mặt với thứ nhiều khả năng là một tình huống gây lo lắng cho con (một cuộc hẹn khám bác sĩ, một bữa ăn cùng rất nhiều khuôn mặt xa lạ…) hãy cố gắng đến sớm cùng với đồ chơi và dành thời gian cùng con chơi vui trước đó. Như thế sẽ giúp gián tiếp chuyển sự chú ý của con khỏi nỗi lo sợ và giúp con làm quen với môi trường mới thông qua những sự khuyến khích quen thuộc.


Chơi giúp tăng cường khả năng tập trung, sự chú ý và trí nhớ.


Khả năng tập trung và chú ý là những kỹ năng học tập, và chơi là một trong những cách tự nhiên nhất và thú vị nhất để một đứa trẻ có thể bắt đầu phát triển những kỹ năng này. Tất cả chúng ta đều từng thấy một đứa trẻ chập chững mải mê chơi đến nỗi thậm chí không nghe thấy khi bạn gọi tên bé. Sự tập trung này cũng chính là kỹ năng mà một đứa trẻ cần trong những năm sau đó để viết một bài luận, lắng nghe một bài giảng hay biểu diễn một bản piano.

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Những điều cần biết khi thực đơn cho bé ăn dùng hải sản


Với những lợi ích về dinh dưỡng không thể chối cãi của các loại cá biển cùng với những băn khoăn không thừa từ bản năng làm cha mẹ, vậy làm thế nào để bé ăn dặm có thể tiếp cận sớm với nguồn dinh dưỡng quý giá này mà vẫn đảm bảo an toàn? Sau đây là đáp án cho những câu hỏi phổ biến nhất của cha mẹ.


Khi nào có thể cho bé ăn cá và hải sản?


Trừ các loại hải sản có vỏ, bạn có thể dùng cá ở dạng bột sệt hoặc nghiền nhuyễn làm thực đơn cho trẻ 6 tháng tuổi khi bé bắt đầu ăn dặm. Cá biển có vẻ là thức ăn dành cho người trưởng thành nhưng thực tế là nó cũng phù hợp cho cả trẻ sơ sinh.


Loại cá nào là tốt nhất? Các loại cá giàu omega-3 nhất bao gồm cá ngừ trắng, cá mòi, cá bơn và cá hồi. Tuy nhiên cá mòi nhiều xương không phù hợp để làm thức ăn cho trẻ nhỏ, trong khi đó cá bơn và cá ngừ có hàm lượng thủy ngân cao., vì vậy cá hồi trở thành nguồn DHA (omega-3) tốt nhất cho cả trẻ nhỏ và người trưởng thành. Ngoài ra, cá da trơn (điển hình là cá basa, cá tra) cũng là một lựa chọn tốt.


Những loại hải sản nào nên tránh trong thực đơn cho bé ăn dặm? Một số loại cá chứa hàm lượng thủy ngân và các chất ô nhiễm cao. Nên tránh ăn cá mập, cá kình, cá lưỡi kiếm (cá cờ), cá thu lớn, cá ngừ lớn. Cá hồi, cá minh thái (pollock), cá ngừ trắng đóng hộp, cá da trơn và cá trê là những loại cá an toàn và bé có thể ăn tối đa 85g cá / tuần. Các loại hải sản có thể gây dị ứng như tôm, cua, sò, ốc hến nên tránh hoàn toàn trong 2 năm đầu đời của bé.


Cho trẻ ăn cá chỉ vì omega-3? Đúng là omega-3 là dưỡng chất nổi bật nhất có trong cá nhưng ngoài ra, cá còn chứa lượng đạm động vật lành mạnh và vitamin D – một loại dưỡng chất rất cần thiết cho xương mà đa số trẻ dung nạp không đủ chuẩn.


Em bé cần bao nhiêu DHA? Mức DHA khuyến nghị cho trẻ sơ sinh vào khoảng 300mg/ngày, trong đó hơn một nửa định mức này bé đã có thể dung nạp từ chế độ ăn hàng ngày trong sữa mẹ và sữa công thức bổ sung DHA. Bên cạnh đó, bạn có thể cho bé ăn thêm 50g cá hồi / tuần trong chế độ ăn dặm của bé từ 6 tháng tuổi. Một khi bé không bú mẹ hoặc uống sữa công thức nữa, bạn có thể tăng khẩu phần cá hồi lên khoảng 150-200g cá / tuần. Nếu định mức này khó có thể đạt được với gia đình bạn, hãy hỏi ý kiến bác sĩ về việc bổ sung DHA cho bé qua thuốc bổ hoặc dầu cá.


Thai phụ và phụ nữ đang cho con bú có nên ăn nhiều cá hơn? Bạn muốn chắc rằng mình không hấp thụ quá nhiều thủy ngân nhưng vẫn nhận được lượng DHA lành mạnh? Lời khuyên là tránh các loại cá biển lớn đã nêu ở trên, đồng thời đảm bảo thuốc bổ tiền thai kỳ mà bạn dùng có chứa DHA. Hãy cố gắng tiêu thụ tối thiểu 300mg DHA/ ngày (trong 170g thịt cá hồi Bắc Mỹ chứa 2000mg DHA và các loại axit béo omega-3 khác).


 


Thực đơn ăn dặm đơn giản từ cá cho bé


Bột cá và rau củ:


- 1 miếng phi-lê cá hồi hoặc basa.


- 2 muỗng café sữa mẹ hoặc sữa công thức bé đang dùng.


- 1 muỗng café mỗi loại: đậu Hà Lan hạt, khoai lang và cà rốt – tất cả bỏ vỏ, hấp chín và nghiền mịn. Có thể thay thế đậu Hà Lan và khoai lang bằng bông cải xanh và khoai tây.


- 1 muỗng bơ lạt hoặc dầu ô-liu.


- Trộn tất cả nguyên liệu với nhau và tán nhuyễn đến mịn như kem.


Cá hồi sốt thì là – ăn kèm với bột lạt hoặc cháo, cơm


- 180g phi-lê cá hồi.


- 1 muỗng canh bột mì, 30g bơ.


- 250ml sữa (sữa mẹ hoặc sữa công thức).


- ½ muỗng canh nước cốt chanh, ½ muỗng canh lá thì là xay nhuyễn.


- Hấp cá cho đến chín (có thể đun cá với sữa cho đến chín thay vì hấp) và lọc sạch xương dăm.


- Đun chảy bơ rồi cho vào bột mì trộn đều, sau đó đổ sữa vào đánh tan trước khi thêm nước cốt chanh và thì là thành hỗn hợp sốt mịn. Đun tiếp trong 2 phút.


- Cho cá hấp vào và tán mịn hoặc xay bằng máy sinh tố.


- Dùng kèm các loại bột lạt em bé như bột gạo, bột khoai nghiền, hoặc cháo.

Bé mẫu giáo: Phát triển kỹ năng nhận thức không ngừng


“Eureka, ta là ta!” – các bé ở độ tuổi này thường tỏ ra khó bảo – không chỉ bởi vì các bé cố tình ương ngạnh mà còn bởi vì các bé đang trải qua giai đoạn phát triển vượt bậc được gọi là “bước đầu hình thành cá tính riêng”. Đây là giai đoạn bọn trẻ bắt đầu hiểu rằng chúng đang được tách biệt dần khỏi người lớn và phải nỗ lực để khẳng định mình.


Khi con bạn tuyên bố “Của tớ!” và ôm khư khư món đồ chơi của mình trong khi chơi cùng nhóm, đây không phải là biểu hiện của sự ích kỷ mà có thể được xem là một thành tích của nhận thức. Lúc này, bé đã có thể cảm nhận bản thân mình là một cá thể riêng biệt, vì vậy, bé muốn thể hiện sự sở hữu. Cách nói “của con (hay của tớ)” cho thấy bé đã hiểu rằng bạn – và những đứa trẻ khác – là những người tách biệt so với bé.


Trẻ con thường dễ quên.


Các bé sẽ không thể nhớ được người bạn thân nhất của mình cho đến khi vào mẫu giáo – tuy rằng cũng có một số bé có thể làm được điều này từ trước 3 tuổi – các nhà tâm lý học gọi đây là “chứng hay quên của trẻ nhỏ”. Nhiều người cho rằng lý do chúng ta không thể nhớ được những điều xảy ra trong những năm đầu đời của mình là mặc dù ký ức vẫn nằm trong não bộ chúng ta nhưng lại không thể đánh thức được. Tuy nhiên, các chuyên gia lại cho rằng những trải nghiệm đầu đời không bao giờ được đưa vào kho dữ liệu dài hạn bởi khả năng ghi nhớ của bộ não trong giai đoạn này chưa thật sự hoàn thiện.


 


Nhưng điều đó không có nghĩa là những trải nghiệm của con bạn từ trước 3 tuổi sẽ không ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kỹ năng của bé mà thực tế là ngược lại, chỉ có điều chúng không thể gợi lại trong trí nhớ của các bé sau này.


Có một “tần số” riêng.


Các bé mẫu giáo thường không nghĩ theo cách giống người lớn chúng ta, bởi chưa có khả năng tư duy logic. Thay vào đó, trẻ nhỏ thường hiểu tất cả theo nghĩa đen, nghĩa là các bé không thể nắm bắt được các khái niệm trừu tượng, và luôn đặt mình là trung tâm, các bé không thể tưởng tượng được hoàn cảnh và vị trí người nào khác, trừ chính bản thân bé.


Các bé từ 4 đến 6 tuổi thực sự tin rằng bạn có thể giữ không cho con quái vật vào phòng bé bằng cách dán những câu “thần chú” như “Quái vật không được vào đây!” trên cánh cửa phòng. Và nếu bạn đang buồn, bé con của bạn có thể mang đến cho bạn một con gấu bông của mình, đơn giản vì bé cảm thấy con gấu bông đó đã giúp bé dễ chịu hơn như thế nào – điều này được giải thích bởi vì bé luôn coi mình là trung tâm và áp dụng điều đó với tất cả mọi người.


Bé tiểu học: Cuộc cách mạng của sự “trưởng thành”


Tính cách và đạo đức.


Những thay đổi về tâm lý trong não bộ của các bé trong độ tuổi đến trường sẽ giúp bé nhận thức được những chuẩn mực đạo đức nhất định trong môi trường mà mình đang sống.


Trước độ tuổi này, con bạn có vẻ nghiêm chỉnh tuân theo hầu hết các quy tắc bởi các bé luôn cảm thấy lo sợ sẽ gặp rắc rối. Nhưng giờ đây, nhận thức của các bé phát triển kỹ năng hơn rất nhiều và bé đã có thể tự mình phân biệt đúng – sai, có những cái nhìn khác, đồng thời bé cũng biết cân nhắc trước những quan điểm do người khác đưa ra, biết cảm thông và quan tâm đến người khác. Với sự phát triển của nhận thức, các bé trong độ tuổi này có thể tự cảm thấy có lỗi khi vi phạm một điều gì đó – kể cả khi không bị phát hiện.


Bé không chỉ nhận ra mình là một cá thể riêng biệt mà nhận thức phát triển giúp bé biết tự phân biệt đúng – sai, biết cách sắp xếp trí nhớ của mình.


Độc thoại nội tâm.


Vào khoảng 8 tuổi, con bạn bắt đầu chơi trò độc thoại với trí tưởng tượng của mình. Thay vì để các món đồ chơi của mình (chẳng hạn như những con thú bông, anh chàng cướp biển, những chiếc xe hơi) nói chuyện với nhau thì bé bắt đầu tự nói chuyện với chính mình về những sự kiện xảy ra, về những trải nghiệm mới, hoặc trò chuyện nhiều hơn với bạn bè và người thân. Có thể bạn sẽ hơi mệt mỏi vì phải nghe con nói về những câu chuyện tưởng tượng hơi vô lý, những đây chính là hành vi hoàn toàn bình thường (thậm chí còn giúp ích cho sự phát triển kỹ năng của bé), cũng giống như những trò chơi tập thể trước đó mà bé tham gia.


Làm chủ trí nhớ.


Đến độ tuổi này, con bạn bắt đầu có cảm giác điều khiển được trí nhớ của mình. Ban đầu, các bé đã có thể nhớ được mọi thứ, nhưng lại không biết cách điều khiển trí nhớ theo ý mình. Tuy nhiên, khi được khoảng 6 tuổi, các bé bắt đầu luyện tập ghi nhớ các thông tin, tài liệu, vào đến 7 tuổi thì đã có thể phân chia các thông tin trong bộ nhớ của mình thành từng loại, nhóm và sắp xếp chúng một cách rõ ràng hơn để có thể nhớ lại về sau.